GIẢI THÍCH VỀ NỚI LỎNG ĐỊNH LƯỢNG(QE): CÁC ĐIỂM THẢO LUẬN CHÍNH

  • Với lãi suất gần bằng 0, Cục Dự trữ Liên bang đã mạo hiểm sử dụng một công cụ chính sách khác trong việc nới lỏng định lượng.
  • Sau nhiều năm nới lỏng định lượng, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã trải qua lợi nhuận kinh tế và tài chính giảm dần.
  • Tương tự, ECB đã tham gia vào các hoạt động tái cấp vốn dài hạn (LTRO) như một hình thức nới lỏng định lượng, nhưng hiệu quả của chúng vẫn còn là một câu hỏi.

NỚI LỎNG ĐỊNH LƯỢNG HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO?

Nới lỏng định lượng (gọi tắt là ‘QE’) là một công cụ chính sách tiền tệ thường được các ngân hàng trung ương sử dụng để kích thích nền kinh tế trong nước. Ngân hàng trung ương mua chứng khoán, thường xuyên nhất là trái phiếu chính phủ từ các ngân hàng thành viên, làm tăng nguồn cung tiền trong nền kinh tế một cách hiệu quả.

Với nguồn cung tăng lên, chi phí tiền tệ giảm xuống khiến cho các doanh nghiệp vay tiền để sử dụng cho việc mở rộng kinh doanh trở nên rẻ hơn. Điều này có tác động tương tự như việc cắt giảm lãi suất ngắn hạn lãi suất tiêu chuẩn mà các ngân hàng trung ương sử dụng; nhưng tùy thuộc vào những gì họ mua, những nỗ lực như vậy có thể làm giảm chi phí cho các khoản vay dài hơn đáng kể. Điều đó có thể ảnh hưởng trực tiếp hơn đến việc cho vay mua nhà, ô tô và doanh nghiệp nhỏ.

CHÍNH SÁCH NỚI LỎNG ĐỊNH LƯỢNG CỦA NGÂN HÀNG DỰ TRỮ LIÊN BANG (FED)

Là ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ, Cục Dự trữ Liên bang có nhiệm vụ cung cấp cho quốc gia một hệ thống tiền tệ và tài chính an toàn hơn, linh hoạt hơn và ổn định hơn. Điều đó thường được rút gọn thành một nhiệm vụ kép là lạm phát ổn định và tỷ lệ thất nghiệp thấp. Để theo đuổi những mục tiêu này, Fed được phân bổ một loạt các công cụ chính sách tiền tệ cho phép nó tác động đến Dollar Mỹ và nguồn cung tiền trong nước. Trong khi tăng và giảm lãi suất Quỹ Liên bang là công cụ được biết đến rộng rãi nhất, bảng cân đối kế toán của ngân hàng trung ương đã trở thành một trong những vấn đề quan trọng và được các nhà đầu tư quan tâm.

TỔNG TÀI SẢN CỦA NGÂN HÀNG DỰ TRỮ LIÊN BANG

Nguồn: FRED

Nói một cách đơn giản, bảng cân đối kế toán của Fed cũng giống như bất kỳ bảng cân đối kế toán nào khác. Trong trường hợp của Fed, nó ghi lại tập hợp các tài sản và nợ riêng biệt trên tất cả các chi nhánh ngân hàng của Cục Dự trữ Liên bang. Ngân hàng có thể sử dụng các tài sản và nợ phải trả này như một công cụ chính sách tiền tệ bổ sung, đặc biệt khi lãi suất đã ở mức thấp và tiềm năng hạn chế với các nỗ lực chính sách tiếp theo.

Năm 2008, khi nền kinh tế Hoa Kỳ bước vào suy thoái trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính, Cục Dự trữ Liên bang đã công bố một loạt cắt giảm lãi suất. Là một công cụ mở rộng điển hình, việc cắt giảm nhằm mục đích thúc đẩy chi tiêu do đó cải thiện nền kinh tế. Tuy nhiên, ngay cả khi lãi suất gần bằng 0, sự phục hồi kinh tế đã không thành công.

Sau đó, vào tháng 11 năm 2008, Cục Dự trữ Liên bang đã công bố đợt nới lỏng định lượng đầu tiên, thường được gọi là QE1. Thông báo này cho thấy Fed ồ ạt thay đổi các hoạt động thị trường tiêu chuẩn của mình khi bắt đầu mua một lượng đáng kể tín phiếu kho bạc và trái phiếu, cùng với các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản và thế chấp có chất lượng cao. Việc mua bán đã làm tăng nguồn cung tiền trong nền kinh tế Hoa Kỳ một cách hiệu quả và khiến việc tiếp cận vốn trở nên ít tốn kém hơn. Chương trình mua kéo dài từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 3 năm 2010 và đi kèm với việc cắt giảm lãi suất Quỹ của Fed, dẫn đến một phạm vi lãi suất mới từ 0 đến 0,25%.

THAY ĐỔI TRONG BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN CỦA FED DO NỚI LỎNG ĐỊNH LƯỢNG

Nguồn:Bloomberg

Với lãi suất Quỹ liên bang gần bằng 0 và không sẵn sàng thử lãi suất âm vào thời điểm đó, ngân hàng trung ương đã sử dụng hiệu quả tất cả các công cụ chính sách tiền tệ mở rộng của mình. Do đó, nới lỏng định lượng đã trở thành một phần quan trọng trong bộ công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và khắc phục tình trạng con tàu bị lật là nền kinh tế Mỹ.

Để tiếp tục hỗ trợ phục hồi, Fed đã theo đuổi các đợt nới lỏng định lượng tiếp theo, hiện được gọi là QE2 từ tháng 11 năm 2010 đến tháng 6 năm 2011 và QE3 từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 12 năm 2013. Các chương trình mua nhắm mục tiêu vào các tài sản tương tự và giúp thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, cũng như thị trường vốn ở Mỹ cho đến khi ngân hàng trung ương cuối cùng đã đảo ngược hướng đi bằng cách tăng lãi suất cơ bản lần đầu tiên vào tháng 12 năm 2015.

Bắt đầu giảm bảng cân đối kế toán vào năm 2018, chúng ta đã thấy cuộc tranh luận về việc thắt chặt định lượng kéo dài (giảm bảng cân đối kế toán) xuất hiện vào năm 2019. Nhiều quan chức Cục Dự trữ Liên bang đã ủng hộ việc giảm dần bảng cân đối kế toán của ngân hàng và ủng hộ việc bình thường hóa hơn nữa khi nền kinh tế Hoa Kỳ đã có hơn một thập kỷ mở rộng kinh tế. Tuy nhiên, tăng trưởng không đồng đều và rủi ro bên ngoài như chiến tranh thương mại đã làm phức tạp hóa vấn đề hỗ trợ đặc biệt này.

CHÍNH SÁCH NỚI LỎNG ĐỊNH LƯỢNG CỦA NGÂN HÀNG NHẬT BẢN (BOJ)

Ngân hàng trung ương Nhật Bản là một tổ chức tài chính khác đã sử dụng nới lỏng định lượng, nhưng với mức độ thành công khác nhau. Một trong những trường hợp đầu tiên xảy ra trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1997 đến tháng 10 năm 1998 khi BOJ mua hàng nghìn tỷ Yên trái phiếu nhằm giúp các ngân hàng vượt qua thời kỳ tăng trưởng thấp, lãi suất thấp và rắc rối từ các khoản nợ khó đòi của ngân hàng. Tuy nhiên, tăng trưởng vẫn không khả quan.

Do tác động quá lớn, Ngân hàng Nhật Bản đã tăng cường mua tài sản từ tháng 3 năm 2001 đến tháng 12 năm 2004. Đợt mua này nhắm vào trái phiếu chính phủ dài hạn và bơm 35,5 nghìn tỷ Yên thanh khoản cho các ngân hàng Nhật Bản. Mặc dù việc mua bán có hiệu quả vừa phải, nhưng việc mua trái phiếu chính phủ dài hạn đã hạn chế lợi suất tài sản và khi xảy ra Đại khủng hoảng tài chính, tăng trưởng của Nhật Bản lại một lần nữa biến mất. Kể từ đó, Ngân hàng Nhật Bản đã tiến hành nhiều vòng QE và nới lỏng tiền tệ định tính (QQE), tất cả đều không hiệu quả khi đất nước phải vật lộn với tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp bất chấp môi trường lãi suất âm.

Nguồn:Bloomberg

Ngày nay, Ngân hàng Nhật Bản đã mở rộng sang các hình thức mua tài sản khác với các mức độ chất lượng khác nhau. Bên cạnh các giao dịch mua thương phiếu trước đó, ngân hàng đã xây dựng quyền sở hữu đáng kể đối với thị trường quỹ giao dịch hoán đổi danh mục (ETF) của đất nước và quỹ tín thác đầu tư bất động sản Nhật Bản hoặc J-REITs.

Nguồn:Bloomberg

BOJ bắt đầu mua ETF vào năm 2010 và tính đến quý 2 năm 2018 sở hữu khoảng 70% tổng thị trường ETF Nhật Bản. Hơn nữa, những giao dịch mua rộng rãi này đã khiến ngân hàng trung ương trở thành cổ đông lớn của hơn 40% trong số tất cả các tập đoàn đại chúng của Nhật Bản, theo Bloomberg. Do đó, chất lượng và xếp hạng tín dụng của các khoản nắm giữ này của ngân hàng trung ương về cơ bản yếu hơn so với các tài sản do chính phủ phát hành như Trái phiếu Chính phủ Nhật Bản (JGBs) và khác biệt đáng kể so với các khoản nắm giữ của Cục Dự trữ Liên bang.

CHÍNH SÁCH NỚI LỎNG ĐỊNH LƯỢNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ANH (BOE)

Giống như các ngân hàng trung ương đã đề cập trước đó, BOE đã tích lũy được một lượng lớn trái phiếu chính quyền địa phương (GILT) và trái phiếu doanh nghiệp thông qua chính sách nới lỏng định lượng của mình. Chính sách này được theo đuổi để thúc đẩy nền kinh tế của Vương quốc Anh trong thời kỳ suy thoái toàn cầu cao điểm mà cuối cùng sẽ dẫn đến nguy cơ rủi ro chính trị gia tăng từ cuộc bỏ phiếu Trưng cầu dân ý ở Scotland, Tổng tuyển cử và cuối cùng là Brexit. Đồng thời, ngân hàng này đã tăng chậm lãi suất cho vay qua đêm.

Nguồn:Bloomberg

Trái ngược với các đối tác Mỹ và Nhật Bản, tổng tài sản nắm giữ của ngân hàng trung ương Vương quốc Anh nhỏ hơn đáng kể. Khi so sánh với GDP quốc gia, tỷ lệ nắm giữ của Ngân hàng Trung ương Anh chỉ chiếm 5,7% vào đầu năm 2019, thấp hơn so với tỷ lệ nắm giữ của Nhật Bản tương đương hơn 100% GDP. Việc nắm giữ tương đối nhỏ có thể cho phép ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn trong tương lai khi lợi nhuận giảm dần của QE vẫn chưa được duy trì.

Nguồn:Bloomberg

Hiện tại, hiệu quả của chiến lược nới lỏng định lượng của BOE dường như vượt trội so với BOJ và phù hợp với chiến lược của Cục Dự trữ Liên bang. Khi sự không chắc chắn của Brexit vẫn còn, ngân hàng có thể quyết định duy trì mạng lưới an toàn hoặc thậm chí có thể tăng cường các biện pháp chính sách tiền tệ. Điều đó đang được nói, ngân hàng sẽ vẫn ít cam kết nới lỏng định lượng hơn nhiều so với nước láng giềng, Ngân hàng Trung ương châu Âu.

CHÍNH SÁCH NỚI LỎNG ĐỊNH LƯỢNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG CHÂU ÂU (ECB)

ECB là một ngân hàng trung ương lớn khác đã theo đuổi nới lỏng định lượng như một công cụ mở rộng, mặc dù bước đột phá của nó vào QE thông thường hiện nay muộn hơn đáng kể so với Fed. Trong đợt nới lỏng gần đây nhất, Ngân hàng Trung ương châu Âu đã chi gần 3 nghìn tỷ USD để mua trái phiếu chính phủ và nợ doanh nghiệp, cùng với chứng khoán đảm bảo bằng tài sản và trái phiếu có bảo hiểm.

Các giao dịch mua được thực hiện từ tháng 3 năm 2015 đến tháng 12 năm 2018 trong nỗ lực tránh lạm phát dưới 0 gây khó khăn cho khối châu Âu vốn vẫn đang trong quá trình phục hồi sau tai họa kép của suy thoái kinh tế toàn cầu và sau đó là Khủng hoảng nợ của Khu vực đồng tiền chung châu Âu. Theo Reuters, các giao dịch mua diễn ra với tốc độ 1,3 triệu Euro mỗi phút, tương đương 7.600 Euro mỗi người trong khối.

Nguồn:Bloomberg

Giống như Nhật Bản, các đợt nới lỏng của ECB tỏ ra khá kém hiệu quả. Vào đầu năm 2019, ngân hàng đã công bố một đợt nới lỏng khác thông qua các hoạt động tái cấp vốn dài hạn có mục tiêu hoặc TLTRO, chỉ vài tháng sau khi kết thúc chương trình QE không giới hạn và khi lãi suất vẫn ở mức 0. TLTRO cung cấp một khoản tài trợ với lãi suất thấp cho các ngân hàng trong Khu vực đồng tiền chung châu Âu nhằm nỗ lực cung cấp thanh khoản ngân hàng lớn hơn và giảm lợi suất nợ chính phủ. Các khoản vay có kỳ hạn từ 1 đến 4 năm.

Nguồn:Bloomberg

TLTRO nhằm mục đích ổn định bảng cân đối kế toán của các ngân hàng tư nhân và tỷ lệ thanh khoản của họ. Tỷ lệ thanh khoản cao hơn cho phép ngân hàng cho vay dễ dàng hơn, từ đó đẩy lãi suất xuống và sẽ cho phép lạm phát. Tuy nhiên, những năm kích thích tiền tệ có thể khiến lợi nhuận giảm dần và có những tác động tiêu cực.

TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA QE: SỬ DỤNG BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN VÀ LỢI NHUẬN GIẢM DẦN

Trong khi QE tỏ ra hiệu quả đối với Cục Dự trữ Liên bang và Hoa Kỳ, thì công cụ chính sách tiền tệ này tỏ ra kém hiệu quả hơn đối với các ngân hàng trung ương của Nhật Bản và Châu Âu và thậm chí còn gây ra một số hậu quả tiêu cực. Đối với nền kinh tế Nhật Bản, chính sách mở rộng trong nhiều năm đã dẫn đến giảm phát và bảng cân đối kế toán của ngân hàng hiện có giá trị cao hơn GDP của đất nước.

Hơn nữa, tỷ lệ sở hữu lớn của nó đối với ETF, JRIET và thị trường trái phiếu chính phủ có thể khiến nó gặp rủi ro cao hơn trong trường hợp xảy ra suy thoái kinh tế. Bất chấp nhiều đợt kích thích và lãi suất âm, tăng trưởng kinh tế đã không thể duy trì và ngân hàng trung ương Nhật Bản đang tiến vào lãnh thổ chính sách tiền tệ không xác định.

Tương tự như vậy, ECB đã chứng kiến ​​hình thức nới lỏng định lượng của riêng mình ít ảnh hưởng hơn đến nền kinh tế châu Âu khi lạm phát và tăng trưởng vẫn im ắng trong khối.

TÁC ĐỘNG CỦA NỚI LỎNG ĐỊNH LƯỢNG ĐỐI VỚI TIỀN TỆ

Về cơ bản, việc sử dụng nới lỏng định lượng làm tăng nguồn cung tiền tệ. Theo các nguyên tắc cung – cầu, một sự thay đổi như vậy sẽ dẫn đến giá của loại tiền tệ đó giảm xuống. Tuy nhiên, khi các loại tiền tệ được giao dịch theo cặp, kết quả là sự suy yếu của một loại tiền tệ có liên quan đến tương quan của nó.

Với môi trường chính sách tiền tệ hiện tại có xu hướng hướng tới nguồn cung dồi dào và chính sách ôn hòa, một số loại tiền tệ báo trước sức mạnh tuyệt đối (USD). Điều đó nói rằng, sức mạnh gần đây đã có được thông qua tâm lý gần như tốt nhất so với phần còn lại, trong đó một sự thay đổi ôn hòa từ một ngân hàng trung ương được theo sau ngay sau đó với sự ôn hòa từ một ngân hàng khác. Các chính sách cạnh tranh tinh vi như vậy có thể trở nên hung hăng hơn, dẫn đến cái được gọi là “chiến tranh tiền tệ”.

Nguồn:Bloomberg

Do đó, nguồn cung tiền toàn cầu đã tăng vọt trong khi giá trị tương đối của các loại tiền tệ vẫn thay đổi. Trong môi trường chính sách tiền tệ hiện nay, sự khác biệt trong cách tiếp cận phần lớn đã trở thành một sự so sánh về tính ôn hòa. Trong số các ngân hàng trung ương lớn, rất ít ngân hàng đứng về phía “Diều hâu” trong chính sách và càng ít ngân hàng có kế hoạch tăng lãi suất chuẩn. Thay vào đó, các quan chức đã sử dụng các đợt bơm vốn khi nới lỏng định lượng dường như đang trở nên phổ biến như một công cụ chính sách tiền tệ mặc dù liệu nó có duy trì lâu dài hay không vẫn còn phải xem xét.


Biên tập và dịch nội dung: Mạnh Hùng

Theo Bloomberg Economics

Cảnh báo rủi ro: Giao dịch tài chính có mức độ rủi ro cao đối với vốn của bạn và bạn chỉ nên giao dịch với số tiền mà bạn có thể mất. Giao dịch tài chính có thể không phù hợp với tất cả các nhà đầu tư, vì vậy hãy đảm bảo rằng bạn hiểu đầy đủ các rủi ro liên quan và tìm kiếm lời khuyên độc lập nếu cần. Tất cả các tài liệu trên trang CSGVN.COM của chúng tôi chỉ nhằm các mục đích tổng hợp tài liệu/cung cấp thông tin và không bao gồm cũng không được coi là bao gồm các tư vấn tài chính, đầu tư, giao dịch, khuyến nghị giao dịch, một lời chào mời, hoặc là một sự xúi giục giao dịch các sản phẩm tài chính.

Tham gia cộng đồng của CSG Group
   
→Hướng dẫn mở một tài khoản XM: Tại đây